Giá trị và ảnh hưởng Kinh_Thi

Một phần của Khổng Tử thi luận (孔子詩論) bàn về Kinh Thi, được viết trên thân tre, hiện lưu trữ tại Viện bảo tàng Thương Hải

Ngay từ thời Tiền Tần, Thi và Thư đã được đặt sánh đôi với nhau, là hai điển tích được kết tập sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc[61]. Quý tộc đời Chu rất coi trọng việc học Thi, vì ngoài mục đích dùng cho điển lễ, phúng gián, thơ còn được dùng trong quan hệ ngoại giao giữa các nước đời Xuân Thu, dùng để tỏ ý chí, làm cho lời nói thêm hoa mỹ[9]. Khổng Tử nhấn mạnh việc học Thi tam bách, cho rằng "Không học thơ thì không biết nói[lower-alpha 33]". Ông ca tụng Thi là "tư vô tà", "có thể giúp hưng phấn, có thể giúp xem xét, có thể giúp hợp quần, có thể giúp biết oán giận. Gần có thể thờ cha, xa thờ vua, giúp biết được nhiều tên của chim muông, cây cỏ". Thiên Thái Bá sách Luận ngữ dẫn lời Khổng Tử "Thơ có thể gây hứng khởi tấm lòng ham điều thiện, ghét điều ác. Lễ có thể khiến cho ta lập thân ở xã hội. Âm nhạc có thể giúp ta hoàn thành việc tu dưỡng nhân cách.[62]". Học giả các học phái đời Tiên Tần, không chỉ Nho gia, đều dùng Thi để ngâm nga, ca hát; dẫn Thi làm dẫn chứng cho đạo lý, khiến việc học Thi nối nhau không đứt đoạn[9], sang đời Chiến Quốc thì Thi trở thành sách giáo khoa của toàn xã hội[63]. Sau đời Tần, Thi chẳng những không bị mai một qua cuộc "đốt sách chôn Nho" mà còn được suy tôn làm "kinh", được thu thập, biên tập, giải thích lại rất nhiều. Từ chỗ là điển tịch văn hóa xa xưa, là văn bản nghiên cứu của học giả, Kinh Thi trở thành nhận thức chung của toàn xã hội, chỗ dựa cơ bản của văn hóa và triết học Trung Quốc suốt hơn hai nghìn năm nay[64]. Vai trò và ảnh hưởng của Kinh Thi là vô cùng to lớn, chẳng những được truyền bá trên toàn cõi Trung Quốc mà còn đến nhiều nơi trên thế giới, trở thành một phần của cải tinh thần của nhân loại.

• Về phương diện văn học, Kinh Thi là một kiệt tác văn học giàu tính sáng tạo cả về nội dung và hình thức. Khuynh hướng tư tưởng và phong cách nghệ thuật Kinh Thi đều ảnh hưởng sâu xa đến văn học đời sau. Toàn bộ lịch sử văn học Trung Quốc phát triển dưới sự khơi gợi của tinh hoa Kinh Thi[65].

Thứ nhất, Kinh Thi đã khai phá một tầm nhìn rộng lớn bao la về đề tài cho văn học Trung Quốc. Các loại hình thường thấy trong thơ ca các dân tộc văn minh cổ đại thì có sử thi, tình ca, nhạc ca tế lễ, thơ kể việc lao động nông nghiệp, riêng Kinh Thi thì có đủ tất cả. Ngoài ra, Kinh Thi còn có thơ yến ẩm, điều này can hệ đến nền văn hóa lễ nhạc rực rỡ nổi lên đời nhà Chu. Thơ tế tự, thơ yến ẩm, thơ nông sự, thơ chiến tranh, thơ oán thán, thơ tình lưu hành đời sau ở Trung Quốc đều lấy Kinh Thi làm nguồn gốc[55].

Thứ hai, Kinh Thi đã đặt nền tảng cho khuynh hướng hiện thực của văn học Trung Quốc. Những bài trong Kinh Thi tả cuộc sống hiện thực về nhiều mặt, thể hiện tình ý của những con người thuộc các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong cuộc sống hiện thực, phản ảnh hiện thực một cách trung thành. Không ít bài trong Phong và Nhã đã nhìn thẳng vào sự thật cuộc đời thảm đạm và đau khổ của dân chúng, chĩa mũi nhọn phê phán sắc bén vào xã hội bất công, châm biếm xã hội, phê phán chính trị hủ bại. Tinh thần hiện thực đó rất được người đời sau tán thưởng. Tinh thần ưu quốc ưu dân trong các tác phẩm của Khuất Nguyên chính là kế thừa tinh thần đó của Kinh Thi. Tuân Khanh cũng nói trong bài thơ Quỷ thi "Thiên hạ loạn lạc, xin trình bài thơ trái lạ này", điều đó chứng tỏ ông cố ý dùng thơ để nói chuyện thời sự, ảnh hưởng của Kinh Thi rất rõ. Nhạc phủ đời Hán, thơ Kiến An, thơ Đường, từ Tống cho đến tạp kịch Nguyên và tiểu thuyết Minh - Thanh đều bắt nguồn hiện thực từ Kinh Thi[55].

Các nhà văn đời sau mỗi khi phản đối khuynh hướng hình thức chủ nghĩa trong thơ đều lấy Kinh Thi làm dẫn chứng, như phong trào phản đối thơ phù hoa diễm lệ từ Đông Tấn đến đầu đời Đường, Trần Tử NgangLý Bạch đã đưa Phong Nhã ra làm gương mẫu[66]. Bạch Cư Dị cũng suy tôn "phong nhã tỉ hứng", cho rằng thơ ca phải "quan sát thời chính mà bổ khuyết", "nói lên tình cảnh của dân" (Thư gửi Nguyên Chẩn), tức là tiếp thu tinh thần hiện thực của Kinh Thi và đã thu được kết quả tốt đẹp qua phong trào Tân Nhạc phủ nổi tiếng.

Thứ ba, Kinh Thi có công khai phá mở đường cho phong cách nghệ thuật văn học Trung Quốc. Ba phép "phú", "tỉ", "hứng" được sử dụng thường xuyên trong Kinh Thi đã trở thành mẫu mực mà các nhà thơ nói riêng và các nhà văn nói chung phải học tập và phát huy. Ly tao dùng thể tỉ rất nhiều như Vương Dật đã nói trong sách Sở từ chương cú "Chim lành, cỏ thơm ví với kẻ trung trinh; chim ác vật thối ví với kẻ sàm nịnh, người đẹp Linh Tu ví với quân vương, gái đẹp Bật Phi ví với hiền thần, long ly loan phượng ví với quân tử, gió mây ví với tiểu nhân". Những tác phẩm sau này như bài Tặng Phổ đô Tào biệt của Bão Chiếu kể nỗi nhớ biệt ly, bài Minh nhạn của Hàn Dũ kể nỗi bần hàn, từ đầu đến cuối đều dùng chim nhạn để ví, những bài đó dường như chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Kinh Thi. Mười chín bài thơ trong Cổ thi đời Tấn, có mấy bài học phương pháp "hứng" như bài Thanh thanh lăng thượng bách (cây bách xanh trên gò) và Nhiêm nhiêm cô sinh trúc (cây trúc đứng một mình)...Kết cấu trùng điệp, hòa thanh trong thơ Kinh Thi còn được thấy trong các tác phẩm dân ca từ Nhạc phủ trở về sau, một số văn nhân cũng học tập như bài Tứ sầu của Trương Hành đời Đông Hán. Không chỉ văn học tiếp thu kĩ xảo nghệ thuật của Kinh Thi như tô đậm, so sánh, khoa trương, đối ngẫu, bài tỉ... mà đến cả nghệ thuật hí kịch, hội họa, âm nhạc... đều in hằn dấu vết của nghệ thuật Kinh Thi[55].

Thứ tư, về thể tài, Kinh Thi cũng có ảnh hưởng nhất định đến văn học đời sau. Ví dụ như quan hệ giữa phú và Kinh Thi đã được Ban Cố khẳng định "phú là dòng thơ cổ", Lưu Hiệp cũng nói phú là "lấy sinh mệnh ở thi nhân, khai thác ở Sở từ". Đại khái Kinh Thi ảnh hưởng đến phú về hai mặt, một là phúng dụ, hai là miêu tả, khắc họa. Ngoài phú ra, các loại văn vần như tụng, tán, bi, lũy, châm, minh... nói chung đều dùng câu bốn chữ, không thể nói là không chịu ảnh hưởng của Kinh Thi được[67]

• Ngoài phương diện văn học quan trọng, xét trên các phương diện lịch sử xã hội, lịch sử chính trị, lịch sử kinh tế, lịch sử tư tưởng, lịch sử khoa học kĩ thuật..., ta đều đều có thể tìm thấy ở Kinh Thi một kho báu vô giá. Qua Kinh Thi, ta có thể biết được phong tục tập quán, tình trạng xã hội và chế độ chính trị của các nước chư hầu ở Trung Quốc thời Chu. Vì thế nên Tưởng Tổ Di đã xem Kinh Thi là một khảo chứng phẩm về nông nghệ thời cổ[68], Hồ Thích cũng đã dùng Kinh Thi để nghiên cứu trạng huống xã hội Trung Quốc trong giai đoạn mà Hồ gọi là "thời kỳ thai nghén triết học[69]".

• Về mặt kinh học, từ sau đời Hán, Kinh Thi được đưa vào Ngũ kinh, trở thành kinh điển của Nho gia, là tài liệu giáo dục quan trọng của Nho sĩ Trung Quốc. Mặc dù Kinh Thi vốn là tuyển tập văn học, nhưng do có thuyết cho rằng nó được Khổng Tử san định nên hậu nho đã "kinh học hóa" (classicize), "huyền thoại hóa" (mythify) thi tuyển ấy. Trào lưu này vốn xuất hiện ngay từ thời nhà Hán với các bản chú giải Kinh Thi như Mao truyện, Trịnh tiên, và tiêu biểu là bản Thi kinh tập truyện của Chu Hy đời Tống. Vì vậy, Kinh Thi còn mang tư cách của một tác phẩm kinh học Nho gia. Kinh Thi chỉ được dạy cho học trò khi họ hoàn thành xong việc học sách Tiểu học 小學 của Chu HyTứ thư của Khổng, Tăng,, Mạnh; khi đã tiếp thu một trình độ nhất định về ứng đối, tiến thoái, hiểu biết được căn bản "lục nghệ" (lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số) mới được học Ngũ kinh và bộ Kinh đầu tiên phải học là Kinh Thi[70]. Do vậy, Kinh Thi trở thành giáo trình chính trị - luân lý cho toàn bộ Nho sĩ trong xã hội Trung Quốc suốt hai nghìn năm phong kiến, đã gánh vác nhiệm vụ giáo hóa muôn dân mà Khổng Tử gọi là Thi giáo[71]. Kinh Thi cũng trở thành chuẩn mực trong các văn bản hành chính như chiếu lệnh của triều đình, tấu nghị của quần thần đến hoành phi câu đối trong cung điện hoặc ở các chùa quán, tư gia... đều lấy chữ và ý tứ trong Kinh Thi[64].

Ảnh hưởng của Kinh Thi còn lan đến các quốc gia đồng văn lân cận Trung Quốc như Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản và để lại nhiều dấu ấn trong các trước tác thư tịch, văn chương của các quốc gia này[72]. Kinh Thi vẫn tiếp tục được nghiên cứu sâu rộng bởi giới "Thi học", không chỉ ở Trung Quốc, Việt Nam mà là trên toàn thế giới.